Nhân buổi chất
vấn công khai tại quốc hội
1/ Tại sao khi
nhân dân khởi kiện về việc bồi thường thiệt hại và
tái định cư căn cứ vào quyết định thu hồi đất, thì
tòa án không cho nói về thu hồi đất, vì cho là đấy là
việc áp giá bồi thường ? Các quyết định bồi thường
căn cứ vào quyết định thu hồi đất, mà nhân dân chứng
minh họ không bị ảnh hưởng và không nhận được quyết
định thu hồi đất !
2/ Tại sao nhân
dân khởi kiện việc thu hồi đất, thì tòa án cho là đã
xử trong vụ kiện bồi thường rồi, nên không thụ lý ?
3/ Tại sao nhân
dân khởi kiện quyết định thu hồi đất, thì tòa án
cho là :
Không phải là
quyết định hành chính.
Hết thời hiệu
khởi kiện.
Không được
nhận quyết định thu hồi đất, (thì làm gì có thời
hiệu )?
4/ Phải chăng
cái gọi là “tòa án nhân dân” là công cụ của cái
gọi là “Ủy ban nhân dân” móc ngoặc, thông đồng với
nhau; để cướp nhà đất của Nhân Dân.
5/ Quyết định
thu hồi đất, phải chăng là bí mật, nên “chính quyền
nhân dân” muốn lấy nhà đất của ai thì lấy, muốn
cưỡng chiếm bao nhiêu diện tích cũng được, vì đâu ai
biết ranh giới và diện tích ?
Chánh án tòa
án tối cao dám trả lời chất vấn này, hay ít ra là trả
lời chất vấn sau đây của Luật Sư Trần Vũ Hải,
người dám đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của Người Thủ Thiêm:
Theo
Người Thủ Thiêm
Đề
nghị chất vấn Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, người
đứng đầu cơ quan hành pháp và một số Bộ trưởng về
việc một số vụ người dân kiện quyết định thu hồi
đất không được giải quyết vì những quan điểm
mâu thuẫn nhau giữa các cơ quan Nhà nước, và kiến nghị
Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích luật
Kính
gửi:
Ông
Nguyễn Sinh Hùng – Chủ tịch Quốc Hội
Đồng
kính gửi:
– Ông Uông Chung Lưu – Phó Chủ tịch Quốc Hội (Chủ
tịch Hội đồng khoa học của Ủy ban Thường vụ
Quốc Hội)
-
Ông Nguyễn Văn Hiện – Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Quốc
Hội
Tôi
– luật sư Trần Vũ Hải, hành nghề tại 81 phố Chùa
Láng, quận Đống Đa, Hà Nội và 66 Huỳnh Khương Ninh,
quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, đang trợ giúp pháp lý
cho nhiều hộ dân khiếu nại việc thu hồi đất tại một
số địa phương, xin kiến nghị như sau đến Quý Vị
nhân kỳ họp Quốc hội đang diễn ra:
Chúng
tôi thấy trong các vụ thu hồi đất, có khá nhiều trường
hơp có quyết định thu hồi đất chung của Thủ tướng
Chính phủ hoặc Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh cho một
hoặc nhiều dự án. Chính quyền địa phương cấp huyện
đã sử dụng những quyết định này để thu hồi đất
của nhiều hộ dân nhưng không thông báo và giao cho họ
quyết định thu đó. Trong những quyết định thu hồi đất
này cũng không ghi tên người bị thu hồi đất, diện
tích đất của họ bị thu hồi.
Lý
giải về việc không giao quyết định thu hồi đất đến
từng hộ dân, chính quyền một số địa phương đã viện
dẫn văn bản số 361/BTNMT-ĐĐ của Bộ Tài nguyên và Môi
trường ngày 30/01/2008 (xin gửi kèm theo – TL1), theo đó
trường
hợp… đã có quyết định thu hồi đất trước Luật
đất đai 2003….thì UBND cấp huyện không phải ban hành
quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá
nhân.
Chúng
tôi cho rằng văn bản 361/BTNMT-ĐĐ trái quy định của
Luật đất đai năm 1993 (được sửa đổi, bổ sung những
năm 1998, 2001) và Luật khiếu nại, tố cáo 1998 (sửa đổi
bổ sung 2004, 2005). Cụ thể:
Điều
21 Luật đất đai 1993 quy định:
“Việc quyết định giao đất đang có người sử dụng
cho người khác chỉ được tiến hành sau khi có quyết
định thu hồi đất đó”.
Điều
28 Luật đất đai 1993 quy định: “Cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất nào
thì có quyền thu hồi đất đó.
Điều
31 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi bổ sung
2004, 2005) quy định:
“Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận
được quyết định hành chính
hoặc biết được có hành vi hành chính”.
Khoản
10, Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo 1998 định nghĩa về
quyết định hành chính như sau: “Quyết
định hành chính là quyết định bằng văn bản của cơ
quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền
trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một
lần đối với một
hoặc một số đối tượng cụ thể
về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý
hành chính”.
Như
vậy, việc thu hồi đất phải căn cứ bằng một quyết
định hành chính, trong đó ghi tên (hoặc gắn liền một
danh sách) một hoặc một số hộ dân cụ thể, cùng diện
tích đất bị thu hồi của từng hộ dân. Người dân
phải nhận được quyết định hành chính (có ghi rõ tên
họ và diện tích bị thu hồi) để chấp hành hoặc thực
hiện quyền khiếu nại.
Do
việc thu hồi đất không đúng pháp luật vì nhiều lý
do, trong đó có lý do quyết định thu hồi đất không
được thực hiện như trên, nhiều hộ dân chúng tôi đang
trợ giúp đã khiếu nại, khởi kiện, tố cáo nhưng
hầu hết hiện nay đều rơi vào bế tắc do các cơ quan
liên quan đều né tránh hoặc không chịu thụ lý.
Chúng
tôi xin nêu một số ví dụ sau đây:
1.
Trường hợp của ông Nguyễn Xuân Ngữ, quận 9, tp Hồ
Chí Minh:
a.
Ngày 27/6/2002, UBND tp Hồ Chí Minh ban hành Quyết định
2666/QĐ-UB thu hồi 804 ha đất mà theo UBND Quận 9 có diện
tích đất của ông Ngữ. Tuy nhiên, quyết định 2666/QĐ-UB
không được giao cho ông Ngữ và các hộ dân khác, không
có tên ông Ngữ và diện tích đất của ông Ngữ bị thu
hồi.
b.
Ngày 11/8/2011, ông Ngữ đã gửi đơn đến Tòa án nhân
dân Tp Hồ Chí Minh (TAND TP HCM) khởi kiện “Hành
vi hành chính của Chủ tịch UBND thành phố Hồ Chí Minh
về việc không tống đạt quyết định hành chính (QĐ
2666/QĐ-UB), không giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo”.
Ngày
13/10/2011, TAND TP HCM trả lại đơn khởi kiện với lý do
hết thời hiệu khởi kiện. Sau đó, ông Ngữ khiếu nại
lên Tòa án nhân dân Tối cao (TANDTC). TANDTC bác đơn khiếu
nại với lý do nội dung trong Đơn khởi kiện ngày
11/8/2011 của ông Ngữ không thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án bằng vụ án hành chính (xin gửi đính kèm –
TL2).
c.
Trong khi đó, tại văn bản số 199/KTrVB của Cục kiểm
tra Văn bản quy phạm pháp luật – Bộ Tư pháp ngày
16/8/2013 trả lời ông Nguyễn Xuân Ngữ ghi rõ “Trường
hợp Ông cho rằng, các văn bản hành chính của …UBND
thành phố Hồ Chí Minh liên quan đến thu hồi đất làm
ảnh hưởng đến quyền lợi của mình thì Ông có thể
khiếu nại đối với các quyết định hành chính đó
hoặc có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án
theo quy định của Luật Tố tụng hành chính” (Xin
gửi đính kèm – TL3).
2.
Trường
hợp về Dự án Khu đô thị mới Thủ Thiêm, liên quan đến
Khu phố 1, Phường Bình An, Khu phố 1,2, Phường Bình
Khánh, Khu phố 5,6 Phường An Khánh, Quận 2:
Ngày 10/5/2002,
UBND thành phố Hồ Chí Minh ban hành quyết định
1997/QĐ-UBND thu hồi 6.214.328
m2 đất,
theo UBND Quận 2 có đất của ông Nguyễn Đình Đệ, tại
khu phố 5, phường An Khánh. Tương tự quyết định
2666/QĐ –UBND nêu trên, quyết định này không ghi tên ông
Đệ, diện tích đất của ông Đệ bị thu hồi và không
giao cho ông Đệ. Ông Đệ khởi kiện quyết định 1997
này ra TAND TP HCM, tòa này đã trả lại đơn kiện của
ông Đệ với lý do quyết định 1997 không phải là quyết
định hành chính nên không thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án (Xin gửi đính kèm – TL4)
3.
Trường
hợp những hộ nông dân Văn Giang bị thu hồi đất trong
Dự án Ecopark:
a.
Việc thu hồi đất ở Văn Giang – Hưng Yên để xây dựng
Khu đô thị Thương mại – Du lịch Văn Giang (Dự án
Ecopark) có nguồn gốc từ 02 quyết định do Phó Thủ
tướng Chính phủ ký (quyết định 303/QĐ-TTg và quyết
định 742/QĐ-TTg). Trong đó, Bộ TN-MT và chính quyền tỉnh
Hưng Yên cho rằng quyết định 742/QĐ-TTg là quyết định
thu hồi đất có hiệu lực đối với các hộ dân liên
quan tại Văn Giang, mặc dù không giao quyết định này cho
họ, không ghi tên những người bị thu hồi đất, diện
tích đất của từng người bị thu hồi.
b.
Hàng ngàn hộ nông dân Văn Giang đã liên tục khiếu nại,
tố cáo, khởi kiện từ năm 2006 đến nay (có đính kèm
trong tập tài liệu kiến nghị 05 mà chúng tôi đã gửi
tới Chủ tịch Quốc hội) nhưng không có cơ quan nào thụ
lý, giải quyết. Các luật sư trợ giúp pháp lý cũng đã
gửi 05 đơn kiến nghị và hàng loạt thư đề nghị,
thông báo khác đến Quý Vị và các cơ quan chức năng
khác nhưng không thấy phản hồi nào.
Như
vậy, cùng một vấn đề khá đơn giản đó là việc xác
định quyết định thu hồi đất chung có phải là quyết
định hành chính có áp dụng những người bị thu hồi
(và do đó có phải thực hiện hành vi hành chính giao cho
người bị thu hồi hay không), nhưng Tòa án và Bộ
Tư pháp đã có quan điểm khác nhau, dẫn đến quyền
khiếu nại, khởi kiện của công dân bị xâm phạm, không
thực hiện được.
Vì
vậy, chúng tôi đề nghị Ông Chủ tịch Quốc hội yêu
cầu Thủ tướng Chính phủ (cùng Bộ Tư pháp, Bộ Tài
nguyên và môi trường), Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao, trả lời trong phiên chất vấn tới của kỳ họp
Quốc hội về những vấn đề sau:
(i)
Dựa trên những căn cứ pháp lý nào Thủ tướng Chính
phủ và các chính quyền địa phương (với sự tham mưu
của Bộ Tài nguyên và Môi trường và sự bỏ qua của Bộ
Tư pháp) đã ban hành quyết định thu hồi đất nhưng
không giao quyết định cho những người bị thu hồi,
không ghi tên và diện tích bị thu hồi của họ.
(ii)
Tại sao tòa án các cấp không thụ lý những khiếu nại
liên quan đến những quyết định thu hồi đất (như
những ví dụ nêu trên).
Đồng
thời chúng tôi đề nghị ông Chủ tịch Quốc hội và
đặc biệt ông Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chung Lưu
(Chủ tịch Hội đồng khoa học của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội) yêu cầu Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực
hiện nhiệm vụ giải
thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh theo
khoản 3 điều 91 Hiến pháp 1992
để
giải thích điều 21 Luật đất đai 1993 “Việc
quyết định giao đất đang có người sử dụng cho người
khác chỉ được tiến hành sau khi có quyết
định thu hồi đất đó”.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần làm rõ theo quy định
của điều luật này (và những quy định khác của pháp
luật), quyết
định thu hồi đất của người đang sử dụng đất có
phải giao cho người bị thu hồi và ghi rõ tên họ, diện
tích đất bị thu hồi không? Có phải là quyết định
hành chính không?
Do
những vấn đề trên rất quan trọng, liên quan đến việc
tháo gỡ bế tắc cách giải quyết, thụ lý cho hàng ngàn,
thậm chí có thể hàng vạn vụ kiện, khiếu nại, tố
cáo ở Việt Nam, chúng tôi rất mong Quý Vị quan tâm, giải
quyết trong thời gian sớm nhất.
Trân
trọng./.
Luật
sư Trần Vũ Hải
Địa
chỉ liên hệ:
số 81 phố Chùa Láng, phường Láng Thượng, quận Đống
Đa, Hà Nội.
Nơi
gửi:
-
Như trên
Tài
liệu kèm theo Kiến nghị này: ( các bản photo)
- Văn bản số 361/BTNMT-ĐĐ của Bộ Tài nguyên và Môi trường ngày 30/01/2008;
- Văn bản số 553/2012/QĐ-THC ngày 19/11/2012 của Tòa án nhân dân tối cao v/v giải quyết đơn khiếu nại;
- Văn bản số 199/KTrVB của Cục kiểm tra Văn bản quy phạm pháp luật – Bộ Tư pháp ngày 16/8/2013;
- Thông báo trả lại đơn khởi kiện số 1601/QATP-VP ngày 12/8/2013 của TAND TP HCM;
-
Những tài liệu liên quan đến vụ thu hồi đất tại Văn
Giang chúng tôi đã gửi đến Ông Chủ tịch Quốc hội
ngày 16/01/2013).
—–
*
Xem: Bài 1 Thư
gửi Đại biểu Quốc hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng;
Bài 2 Bình
luận nhanh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 sau đúng
một năm tiếp thu, chỉnh lý (về Lời nói đầu, Chương
I và Chương II);
Bài 3 Bình
luận tiếp về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 sau
đúng một năm tiếp thu, chỉnh lý (từ chương III đến
hết Dự thảo);
Bài 4 THƯ
CỦA LUẬT SƯ TRẦN VŨ HẢI GỬI ÔNG VŨ ĐỨC ĐAM -
BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ;
Bài 5 Ngày
Pháp luật Việt Nam, Hiến pháp, Công ước về nhân quyền
và Nguyễn Thanh Chấn, Nguyễn Công Nhựt.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét