CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc
lập – Tự do – Hạnh phúc
TP.Hồ
Chí Minh, ngày 8 tháng 03 năm 2014
ĐƠN
TỐ CÁO
(Đ/v
Hành vi lén lút, vụng trộm của ông Lê Minh Trí - phó
CTUBND TPHCM. Hiện nay là phó Ban Nội chính TW cấu kết với
phó Tổng Thanh tra Chính Phủ; Ra văn bản bịa đặt, vu
khống nhằm lấp liếm, bao che cho hành vi phá nhà, cướp
tài sản, chiếm đất của tôi. Để báo cáo gian dối lên
Thủ tướng Chính phủ về việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo. )
Kính
gửi
ÔNG NGUYỄN
BÁ THANH
TRƯỞNG
BAN NỘI CHÍNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG
Đồng
K/gửi :
CÁC PHƯƠNG TIỆN THÔNG TIN , BÁO GIỚI
Người tố cáo :
Nguyễn
Xuân Ngữ, sinh năm: 1943, CCB, CBHT, con LS.
Chủ
quyền hợp pháp nhà, đất số 166/6 KP Mỹ Thành, P. Long
Thạnh Mỹ, Q9
CMND
số: 023030668, cấp ngày 13/9/2004, tại TPHCM
Hiện
bị chính quyền quận 9 (
gồm quận ủy và UBND quận – viết gọn là CQQ9 )
đuổi ra khỏi nơi ở hợp pháp dồn vào khu tập trung (
như
mô
hình khu trù mật, khu dồn dân để chiếm đất của thời
Ngô Đình Diệm, Nguyễn văn Thiệu)
.
Địa chỉ
liên lạc hiện nay: P.C9, khu nhà trọ số 41, đường Tăng
Nhơn Phú, Khu Phố 2, Phước Long B, Quận 9, TPHCM
Người
bị tố cáo : - Ông Lê Minh Trí nguyên
phó
CTUBNDTpHCM
Hiện
đang là Phó Ban Nội chính Trung ương.
-
Bà Lê Thị Thủy – Phó Tổng Thanh tra Chính phủ
,
Nước Cộng hòa xã Hội
chủ nghĩa Việt Nam
- Ông
Vũ Huy Tác – Phó Cục trưởng Cục III
Thanh tra Chính phủ, tổ
trưởng tổ công tác
Cơ sớ
pháp ý để tố cáo;
Căn cứ
Điều 19 Luật Tố cáo số 03/2011/QH13 ngày 11/11/2011 .
Căn cứ khoản 2 Điều
I, quy định số 94/QĐ-TW ngày 15 / 10 / 2007 ; Phạm vi đối
tượng xử lý kỷ luật của Ban Bí thư Trung Ương Đảng
.
Nội
dung tố cáo:
I
. Hành vi ban hành biên bản gian dối, xảo trá của Thanh
tra Chính phủ và
ông Lê Minh Trí phó CTUBTPHCM, hiện là phó Ban nội chính
TW
Ngày 22/01/2014 ( Ngày 22 sắp Tết Giáp Ngọ ) tôi đến Trụ sở tiếp công dân của TW Đảng và Nhà nước tại Hà nội. Tôi nhận được tờ “BIÊN BẢN THỐNG NHẤT GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC số 26/BB- UBND- TTCP đề ngày 10 - 01-2013 ( BB26BB) vụ việc ông Nguyễn Xuân Ngữ tố cáo lãnh đạo UBNDQ9 vi phạm pháp luật trong dự án Khu Công nghệ cao quận 9 TPHCM ” do ông Lê Minh Trí, lúc đó là Phó chủ tịch UBND TPHCM , nay là phó Ban Nội chính TW và bà Lê Thị Thủy phó Tổng thanh tra Chính phủ nước CHXHCNVN ký .
Khi nhận
tờ biên bản này, tôi thật sự bất ngờ. Bất ngờ vì
:
Với
cương vị như bà phó Tổng thanh tra Chính phủ Lê Thị
Thủy, ông phó Ban nội chính Trung ương Lê Minh Trí, và
ông Cục phó Cục III Thanh tra Chính phủ Vũ Huy Tác. Tôi
nghĩ, lẽ ra các cán bộ cấp Trung ương này không những
phải nghiêm chỉnh chấp hành mà còn phải gương mẫu
thực thi Hiến pháp và pháp luật .
Nhất là
trong năm qua cán bộ, đảng viên đều được học tập
Nghị quyết TW4, và cuộc vận động học tập, làm việc
theo tấm gương đạo đức Bác Hồ, nên ít nhiều cũng có
tác động trong suy nghĩ về lời dạy của Bác Hồ.
“ Thanh tra là tai
mắt của trên , là người bạn của dưới ”
và
“ Bất
kỳ ở địa vị nào, làm công tác gì, chúng ta đều làm
đầy tớ của nhân dân – Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta
mặc, vật liệu chúng ta dùng đều là mồ hôi và nước
mắt của nhân dân mà ra – Vì vậy, chúng ta phải đền
bù xứng đáng cho nhân dân…”
Bác quan
tâm đối với việc khiếu nại, tố cáo của người dân,
đã căn dặn nhắc nhở cơ quan hữu trách, và cán bộ
viên chức làm công tác này.
“
Đồng bào có oan ức mới khiếu nại,…. Ta phải giải
quyết nhanh, tốt thì đồng bào thấy rõ Đảng và Chính
phủ quan tâm lo lắng đến quyền lợi của họ, do đó ”
“ Quan điểm của
chúng ta đối với những điều nhân dân kêu với chúng
ta
Một
là, người ta kêu về những cái bản thân người ta bị
thiệt thòi; Hai là người ta kêu về những cái người ta
thấy không đúng trong công việc của chúng ta, trong đội
ngũ các bộ của chúng ta, người ta tố cáo những cái
không đúng đó, trách nhiệm của những người ở cơ
quan Nhà nước đồng thời cũng là những người ở cương
vị lãnh đạo của Đảng …trách nhiệm tối thiểu của
chúng ta là phải giải quyết những điều người ta kêu
với chúng ta. Những người đó là Nhân dân, các tầng
lớp nhân dân, những người bị thiệt, những người có
điều uất ức trong lòng ”.
Vậy mà
ông phó Ban Nội chính Trung ương lại cùng với một số
cán bộ lãnh đạo của Tổng Thanh tra Chính phủ; Cơ quan
thường trực phòng chống tham nhũng chụm
nhau lại lén lút, viết ra một văn bản là “Biên
bản thống nhất giải quyết vụ việc số 26/BB- UBND-
TTCP đề ngày 10 - 01-2013
( BB26 ) vụ việc ông Nguyễn Xuân Ngữ tố cáo lãnh đạo
UBNDQ9 ” với
lời lẽ hoàn toàn bịa đặt, vu khống
để báo cáo lừa dối Thủ tướng Chính phủ, lừa dối
Quốc Hội, đúng là dối Đảng, hại dân, đây có lẽ là
bản chất của ông Lê Minh Trí như Báo Người cao tuổi
đã viết bài “
Những tiếng chuông cảnh báo ” đăng
07/8/2009 khi ông Trí còn làm CTUBND quận 1 TPHCM ( xem ở
phần cuối đơn .)
Bản này
không phải là quyết định giải quyết khiếu nại, tố
cáo, không phải là quyết định đình chỉ KN,TC. Biên bản
này mang tính báo cáo Thủ tướng để lấy thành tích,
lợi dụng lòng tin của Thủ tướng Chính phủ và cơ quan
có thẩm quyền cấp trên và lừa dối công luận, càng
gieo vào người dân thêm bức xúc vì oan ức!
Bằng
chứng :
Tài sản hợp pháp
của tôi :
- Nhà và
đất của tôi có giấy chứng nhận QSDĐ ( có sổ đỏ ).
Là một trang trại được xây dựng công phu, có địa thế
ven bờ sông, môi trường tốt.
-
Với mô hình V.A.C có thể thu nhập lâu dài hàng tỷ đồng
mỗi năm, từ các nguồn:
-
Hoa quả Sa kê, nhãn, xoài xanh, mít, chôm chôm Thái lan.
-
Dược liệu : Lá Sa kê, Đinh lăng, Diệp Hạ châu, Trinh nữ
Hòang cung …
- Gia cầm
Gà Tây, ngỗng, vịt xiêm, gà ác, gà sao, các loại động
vật quý hiếm Tắc kè, Nhím, Trăn, Gấu ngựa…( nuôi
hợp pháp )
- Thủy
sản : Cá chình, cá bống mú, hàng tấn Ba Ba, Rùa.
- Ngoài
ra còn thu từ dịch vụ : câu cá , cầu lông …
http://www.youtube.com/watch?v=4kupqUyv3Jc
Địa thế
nhà, đất, trang trại của tôi nằm bên bờ của nhánh
sông Đồng nai, môi trường trong sạch, mát mẻ, thuận
tiện giao thông thủy bộ và du lịch sông nước .
Với một
trang trại bề thế, nhiều thuận lợi cho phát triển kinh
tế gia đình. Trước khi xây dựng trang trại này tôi đã
tìm hiểu và được biết sau này là khu dân cư nhà vườn
cây xanh…Mặc dù nhà, đất của tôi cách xa tường xây
bao phân cách khu công nghệ cao với bên ngoài khoảng 2 đến
3km, nhưng chính quyền quận 9 ( viết gộp cả quận ủy
và ủy ban quận 9 – CQQ9 ) lợi dụng việc lấy đất cho
dự án công nghệ cao ( CNC ), để manh tâm chiếm đoạt .
Cụ thể là :
- Ngày 05
/ 5 / 2003 CQQ9. Dùng quyết định thu hồi đất của phường
Long Bình ( P.khác ) để kiểm kê lấy đất của tôi.( Tôi
không dùng cụm từ thu hồi đất, vì toàn bộ việc lấy
đất của 3099 hộ dân không có quyết định thu hồi đất.
Không tống đạt QĐ thu hồi đất đến cho từng hộ gia
đình theo quy định của pháp luật : LĐĐ 2003 – kể cả
LĐĐ1993, sđbs 1998,2001) .
Nội dung
sự việc như trong Báo Phụ nữ ngày 04 -9-2008 có bài viết
:
“ MẬP MỜ ĐỀN BÙ GIẢI TOẢ ”
- CQQ9 nói
“ thu hồi ” đất của tôi cho dự án CNC; nhưng lại đề
nghị tôi nhận cho một gia đình ( 2 vợ chồng + 1 đứa
con ) người thân của ông Nguyễn Văn Út trưởng ban bồi
thường (BBT ) vào ở lâu dài ? Tôi không chấp nhận, nên
nảy sinh mâu thuẫn…( Nay ông Út lên làm Chánh Văn phòng
UBNDQ9 ).
- Đầu
năm 2004 CQQ9 nói tôi nộp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ( sổ đỏ ) để kiểm tra tính pháp ý ( Thật
– giả ) cho việc tính giá trị bồi thường. Thậm chí,
tạo cớ làm tin, CQQ9 nói tôi làm đơn đề nghị để tín
chấp cho tôi 700, triệu đồng. Nhưng giữ luôn giấy
CNQSDĐ không trả tôi. Đồng thời đẩy nhà đất của
tôi vào cảnh quy hoạch treo .
- Ngày
13/ 11/ 2004 tôi đã gửi đơn đến CQQ9 cho biết đất, nhà
của tôi có nằm trong quy hoạch không ? Nếu không nằm
vào quy hoạch, tôi hoàn trả lại tiền và trả lại tôi
sổ đỏ, CQQ9 im lặng không trả lời. Đây là hành vi lừa
gạt để chiếm giấy tờ trước và chiếm đoạt tài sản
sau.
- Ngày
21/12/2005 CQQ9 đơn phương ban hành quyết định tính giá
trị bồi thường tài sản của gia đình tôi .(TGTBTTS)
số 3144/QĐ-UBND-BBT, đề
ngày 21/12/2005. Tính bồi thường, chỉ tính một phần tài
sản nhà tôi không tính hết. Nghiêm trọng hơn là Nhà,
đất, tài sản của tôi hoàn toàn chưa có một văn bản
mang tính pháp lý nào để khẳng định là nằm vào dự
án CNC phải bị thu hồi:
-
Không cung cấp thông tin : lý do, mục đích thu hồi đất.
- Không
thực hiện quy định tại Điều 32, LĐĐ 2003.
-
Không
công bố bản đồ quy hoạch chi tiết 1/2000
khu
CNC theo quy định của Pháp luật, thì cơ sở nào để
biết nhà và đất của tôi có nằm vào diện tích quy
hoạch ? và DT thu hồi là bao nhiêu để tính bồi thường
? ( Điều 24 Nội dung quy hoạch chi tiết quản lý quy hoạch
xây dựng. Điều 32 Công bố quy hoạch xây dựng. Điều
33 Cung cấp thông tin về quy hoạch xây dựng – Luật xây
dựng )
- Không có quyết định thu hồi đất
và không tống đạt QĐ thu hồi đất đến gia đình tôi
theo
quy định của LĐĐ 2003.
“
Khoản 3 Điều 53 NĐ 84/2007
. Quyết định thu hồi
đất phải được gửi đến người có đất bị thu
hồi và …”
- CQQ9
nêu căn cứ Luật đất đai đã được thông qua tháng
11/ 2003 ( có Điều 145 ) nhưng không áp dụng một Điều,
khoản nào của LĐĐ 2003 ; Mà CTQ9 tính giá bồi thường
lại áp dụng LĐĐ1993, 1998, 2001 đã hết hiệu lực pháp
luật từ 5 năm trước.
“Căn
cứ
Nghị
định 22/CP…Căn cứ Quyết định số 121QĐ.”
( Hai văn bản này hướng dẫn thi hành LĐĐ 1993…2001)
- Đất,
nhà của tôi tại Khu phố
Mỹ Thành, P.Long Thạnh Mỹ.
Ủy ban Q9 lại dùng QĐ 2193 của UBTP thu hồi đất của
P.Tăng
Nhơn Phú A và Tăng Nhơn Phú B
làm căn cứ pháp lý để buộc nhà và đất của tôi vào
“đối tượng” phải bị thu hồi !?
- CQQ9 còn
dùng thủ đoạn : cho Ban bồi thường (BBT ) liên thông với
TANDQ.9 và Phòng kế hoạch tài chính Q.9, cấu kết lập ra
2 tờ biên nhận giả (bút lục số 410 và BL số 409) nói
có người đã góp tiền mua chung đất với tôi taị 166/6
này. Tiếp theo, Tòa án Q9, VKSNDQ9, Ban bồi thường Q9,
chính quyền phường đến kiểm kê tính giá trị tài sản
nhà và đất của tôi ( Bút lục từ số 347 đến BL số
351 ) để đòi chia tiền bồi thường. Tôi kiện việc này
Tòa án Q.9. Vụ việc này kéo dài 6 Phiên Tòa (3 Sơ Thẩm
+ 3 Phúc Thẩm) mới được xử lý rõ thật giả, đúng
sai.
Sau vụ
lập chứng cứ giả vừa nêu trên CQQ9 thua kiện, Chủ
tịch UBQ9 lại trắng trợn lập mưu kế lừa gạt :
Khi giao
tiền bồi thường cho tôi, Ban bồi thường Q9 cấu kết
với chủ tịch UBND p. Long Thạnh Mỹ ông Cao Văn Hoàng, in
tờ cam kết để thực hiện hành
vi lừa tôi ký bằng
thủ đoạn xếp kẹp sẵn vào giữa 2 tờ : Tờ phiếu chi
100 triệu đồng và tờ biện bản bàn giao tiền bồi
thường : “
TỜ CAM KẾT GIAO MẶT BẰNG”
cho nhân viên làm ra vẻ phục vụ chu đáo, đưa đến
trước mặt nói tôi ký, cũng may tôi phát hiện ra, nếu
sơ ý, ký vào là mất trắng toàn bộ nhà, đất, tài sản
vào tay CQQ9 (
Trị giá khoảng 6-70 tỷ ) nói theo dân dã, đây là hành
vi lưu manh “ bút sa gà chết ” còn nói gì được !
Ngay sau
khi nhận QĐ bồi thường số 3144/ tôi đã làm đơn khiếu
nại. Yêu cầu CQQ9 giải quyết những hành vi sai trái trên
( cơ sở pháp lý nào nói nhà đất của tôi nằm vào quy
hoạch khu CNC. Tại sao nêu căn cứ pháp lý là LĐĐ 2003
nhưng tính bồi thường lại áp dụng LĐĐ1993, 1998, 2001 )
Quyết
định cưỡng chế hành chính tàn phá hủy diệt san bằng
trang trại của tôi không phải cho dự án khu CNC mà cho
Cty tư nhân T.C làm kho chứa hàng kinh doanh tạp vụ.
Ngày
3/4/2009 UBND Q9 ra Quyết định số 13/QĐ-UBND về việc
cưỡng chế hành chính, do Phó chủ tịch Nguyễn Văn Thành
ký thay với lý do : “
Điều I. Nay áp dụng biện pháp cưỡng chế hành chính
đối với hộ ông Nguyễn Xuân Ngữ ….về việc không
nghiêm túc thi hành quyết định số 2666/QĐ-UB ngày 27/ 6
/2002 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh …”
Quyết
định số 2666/QĐ-UB ngày 27/6/2002 của UBND TPHCM về việc
thu hồi đất giao xây dựng Khu công nghệ cao, để thu
hồi đất và cưỡng chế thu hồi đất của gia đình
tôi là mang tính bịa đặt, vu khống nhằm chiếm đất
của tôi và trả thù tôi không có 2 tỷ..như ông phó
CTUBQ9 Nguyễn Văn Thành gợi ý và không cho người nhà ông
trưởng BBT vào ở lâu dài, mà còn bị tôi tố cáo quyết
liệt, bị nhiều cơ quan báo đưa lên công luận . Nhất
là trong khi gia đình tôi chưa bao giờ nhận được, chưa
bao giờ nhìn thấy Quyết định số 2666/QĐ-UB ngày
27/6/2002. Tôi đã có văn bản yêu cầu Chủ tịch UBND
TPHCM và Ủy ban Nhân dân (UBND) Quận 9, giao cho tôi Quyết
định này. Nhưng đến nay đã hơn 10 năm, Ông Chủ
tịch UBND TPHCM và UBND Quận 9 vẫn chưa giao và không thông
báo lý do tại sao ?
Quyết
định 2666/QĐ-UBND không nêu rõ khả năng đất của tôi
trong phạm vi điều chỉnh của quyết định này. Tóm lại,
đến thời điểm 01/07/2004 (thời điểm Luật Đất đai
2003 có hiệu lực) không
có bằng chứng xác định Quyết định 2666/QĐ-UBND nêu
trên liên quan trực tiếp đến đất của nhà tôi (nếu
có, đề nghị UBND Q9 cung cấp bằng chứng).
UBND Q9
cho rằng họ áp dụng khoản 3 điều 39 Luật Đất đai
2003 để cưỡng chế thu hồi đất đối với tôi, trích
dưới đây:
"
Trường hợp người bị thu hồi đất không chấp hành
quyết định thu hồi đất thì ủy ban nhân dân cấp có
thẩm quyền quyết định thu hồi đất ra quyết định
cưỡng chế".
- UBND Q9
cho rằng tôi không chấp hành quyết định thu hồi đất
của UBND Thành phố (Quyết định 2666/QĐ-UBND).
- Nếu
đúng vậy, UBND Thành phố phải ra quyết định cưỡng
chế và UBND Q9 không có quyền ra quyết định cưỡng chế
thay UBND Thành phố.
Nói cách
khác, UBND Q9 đã thừa nhận họ ban hành quyết định
cưỡng chế sai thẩm quyền, sai hình thức, sai nội dung,
sai tính pháp lý, vì cưỡng chế tại thời điểm tháng
05/2009 phải tuân theo Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày
25/05/2007 của CP
Theo Điều
60, việc cưỡng chế thu hồi đất đã không đảm bảo
những điều kiện :
Thực
hiện đúng trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định tại các
điều 49, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58, 59 Nghị định
này.
Tôi không
thấy UBND Q9 đã thực hiện trình tự thủ tục theo Điều
53 NĐ84/ về quyết định thu hồi đất.
“ Khoản
3 Điều 53 NĐ 84/2007 . Quyết
định thu hồi đất phải được gửi đến người có
đất bi thu hồi và được niêm yết tại trụ sở Ủy
ban nhân dân cấp xã nơi có đất bi thu hồi trong suốt
thời gian…đến
thời điểm kết thúc thu hồi ”
Theo đó,
phải có quyết định thu hồi đất chung kèm theo danh sách
đất, tên người bị thu hồi, quyết định thu hồi đất
riêng đối với từng thửa đất, tên người và phải
gửi đến người có đất bị thu hồi, niêm yết tại
trụ sở UBND cấp xã. Tôi cho rằng UBND Q9 không thực hiện
đúng theo Điều 58 Nghị định này.
Nói tóm
lại quyết
định 2666/QĐ là quyết định thể hiện chủ trương
thu hồi đất chung nên không xác định ranh giới cụ thể
, chỉ nêu chung chung thu hồi đất trong khu vực gồm các
phường Tân Phú, Tăng Nhơn Phú A, Tăng Nhơn Phú B, Long
Thạnh Mỹ và Phước Long B thuộc quận 9 và giao cho ban
quản lý dự án khu CNC TP HCM . Là quyết định hành chính
chỉ đạo điều hành giữa các cơ quan nhà nước với
nhau. Không phải là quyết định thu hồi đất theo LĐĐ
1993 hay LĐĐ 2003.
Ngoài ra
QĐ
cưỡng chế nhà tôi số 13 này, có nêu căn cứ các văn
bản pháp luật hiện hành, ( LĐĐ 2003, NĐ 84/2007…),
nhưng thực tế không thực hiện một điều khoản nào
của các văn bản này, mà áp dụng các quy định hết
hiệu lực ( NĐ22 và QĐ 121/UBTP )
Đặc
biệt QĐ 13 có nêu căn cứ QĐ
422/QĐ-UBND-TTr ngày 23/10/2006 của Chủ tịch UBNDTPHCM (?).
Thực tế hơn 7 tháng sau, ngày 20/11/2009 : CQQ9 thừa nhận
QĐ 422 là của Chủ tịch UBNDQ9 (!)…CQQ9 nêu trong QĐ cưỡng
chế để các cơ quan hữu quan cấp trên và công luận cho
rằng ; việc KN của tôi đã được cấp trên ban hành QĐ
giải quyết KN lần 2, Vì tôi ngoan cố không chấp hành
nên họ có lý do cưỡng chế .. và đây là hành vi lạm
dụng danh nghĩa cơ quan Nhà nước để thực hiện ý đồ
mờ ám chiếm đoạt tài sản, đất đai của tôi.
Việc phó
chủ tịch ký, thay mặt ( TM.) Chủ tịch ký QĐ CCHC nhà
tôi là không đúng thẩm quyền.
Do những
hành vi sai trái của CQQ9 và UBNDTP HCM nêu trên. Trong hơn
10 năm qua, theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo (
KN,TC ) và quy định thẩm quyền giải quyết. Tôi đã gửi
đơn KN,TC, đơn kiến nghị, đơn kêu cứu, kêu oan đến
các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền từ cấp quận, đến
thành phố Hố Chí Minh. Đơn tôi gửi đều bị chuyền
qua, chuyền lại rồi chìm trong im lặng.
Vì lẽ
đó tôi mới phải gửi đơn lên các cơ quan hữu quan của
Trung ương và các cơ quaan truyền thông Báo giới. Đã có
trên 10 cơ quan Báo chính thống và Đài truyền hình TW đã
có bài viết liên quan đến hành vi sai trái cùa CQQ9 đối
với việc chiếm đất trái pháp luật của tôi .
Sau đó
tôi đã nhận được giấy báo tin : Ý kiến chỉ đạo
của Chủ tịch nước qua văn bản số 78/VPCTN-PL, ngày 21/
01/ 2010 gửi CTUBTPHCM xem xét, giải quyết đơn khiếu nại,
kêu oan của tôi …
Hai văn
bản truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng “
giao Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh chỉ
đạo kiểm tra nội dung khiếu nại của ông Nguyễn Xuân
Ngữ, có biện pháp giải quyết theo quy định của pháp
luật ; báo cáo kết quả lên Thủ tướng Chính phủ ”
Văn
bản thứ 2 số 6687/
VPCP-KNTN ngày 21/09/2010 … “
Văn phòng Chính phủ đề nghị đồng chí Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh báo cáo Thủ tướng
Chính phủ kết quả giải quyết khiếu nại của ông Ngữ
trước ngày 15/10/2010.” (văn
bản số 4642/VPCP-KNTN ngày 06/07/2010 xin gửi kèm )
Cùng với
các văn bản chỉ đạo nêu trên, nhiều phiếu chuyển,
công văn của các UB Quốc Hội, của các cơ quan TW Đảng,
của nhiều đại biểu QH chuyển đến UBTPHCM. Trong
đó có Văn bản của Đại biểu Quốc hội Trần Thị
Quốc Khánh chất vấn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về
trường hợp có liên quan đến nhà, đất, tài sản hợp
pháp của tôi bị UBNDTPHCM và UBQ9 chiếm đoạt trái pháp
luật.
đã
kéo dài nhiều năm không được chính quyền Q9 và UBTPHCM
xem xét giải quyết !:
Bà Trần Thị Quốc Khánh cũng có văn bản khác, gửi đích
danh đến ông nguyên Bộ Trưởng Chủ nhiệm Văn
phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc
số 128/CV-ĐB đề ngày 23/ 9 / 2010.
Ngoài ra
còn rất nhiều văn bản khác, như :
Ông
Nguyễn Minh Thuyết với cương vị là Đại biểu Quốc
khóa XII có văn bản số 183/ CV-ĐB đề ngày 24/ 9 / 2010
gửi đích danh đến ông nguyên Tổng thanh tra Chính phủ
Trần Văn Truyền . …( xin gửi kèm các phiếu chuyển
...).
Tất cả
những văn bản chỉ đạo, kiến nghị của TW gửi xuống,
CTUBNDTPHCM đều làm ngơ, chỉ khi có công văn của Cục
cảnh sát Điều tra về tôi phạm TTQL kinh tế và Chức vụ
gửi đến UBNDTPHCM, thì UBTPHCM vội vã ban hành văn bản
số 227/UBND-PCNC đề ngày 19/01/2011 do ông Nguyễn Thành Tài
ký gửi đến các cơ quan hữu quan của TPHCM và nhiều cơ
quan của TW nhằm bao che chạy tội cho những cán bộ lãnh
đạo chủ chốt từng tham nhũng đất đai và đã nhiều
lần công khai ăn hối lộ trong CQQ9, nói chung và phó chủ
tịch phụ trách nhà đất Nguyễn Văn Thành nói riêng.
Nội dung
trong văn bản số 227/UBND hoàn toàn là lời bịa đặt, vu
khống bỉ ổi vô liên sỉ của các cán bộ khai gian lý
lịch chui vào đảng, văn hóa chưa học hết cấp một phổ
thông , vốn là cò đất cho người có tên là Trầm Bê
nào đó. Nguyễn Văn Thành cũng là kẻ
reo
rắc nạn tham nhũng đất đai ở TPHCM nói riêng và cả
nước hiện nay nói chung, phó chủ tịch Thành nhả ra câu
nào, Nguyễn Thành Tài lại đớp ngay câu đó, rồi phụt
ra làm ô uế môi trường pháp luật.
Sau khi
hủy diệt tàn bạo và cướp đoạt tài sản của tôi,
ngày
11/6/2009 bà Nguyễn Thị Lê phó Bí thư thường trực quận
uỷ Q9 mời tôi đến họp, bà giả vờ ngỡ ngàng, và
thương hại: “ Không
ngờ sự việc lại nghiêm trọng đến thế …Tôi thấy
sức khỏe của ông Ngữ dạo này sa sút quá … ” và
ngày
09/8/2009 Phan Nguyễn Như Khuê Bí thư quận Uỷ quận 9 mời
tôi tiếp xúc, ông ta giả nhân giả nghĩa, ăn năn làm như
ân hận hối tiếc, trước khi kết thúc buổi họp ông
Khuê miệng nói xoen xoét:
“ Thứ nhất: Lãnh đạo quận
chúng tôi rất trân trọng gia đình Ông Ngữ đã sớm tham
gia CM và có nhiều công lao đóng góp cho hai cuộc kháng
chiến …”
“Thứ 2: Lãnh đạo quận cũng rất
trân trọng Ông Ngữ đã có nhiều năm tham gia chiến đấu
tại chiến trường Miền Nam trong thời kỳ chống Mỹ,
nay luôn chấp hành mọi chính sách của Đảng và Nhà
nước, sẳn sàng hợp tác với địa phương trong việc
phát triển kinh tế…”.
- Ông
Khuê thừa nhận:
Lãnh đạo quận có sơ sót là
thiếu kiểm tra, tin vào việc chắp bút của các Ban, Ngành
tham mưu cho Lãnh đạo Quận, viết văn bản báo cáo không
coi lại kỹ nên để xảy ra sự việc đáng tiếc: Ông
Ngữ là người không có tội, lại bị cho là có tội…!?
Tôi sẽ chỉ đạo cho UBND quận tiếp tục mời Ông để
làm rõ từng vấn đề …
nhưng
là lời nói suông của một Thành Ủy viên ,TPHCM. ( Kẻ
nói suông này nay được bổ nhiệm là Chánh Văn phòng
Thành ủy ! Chánh Văn phòng của một Đảng bộ lớn nhất
nước là con người như vậy? thì dân còn biết dựa vào
ai? ).
Nhưng đến
nay vụ việc vẫn chưa được giải quyết. Thực tế,
phần diện tích đất này vẫn thuộc chủ quyền của gia
đình tôi vì việc thu hồi đất của Chính quyền Quận 9
và UBND TPHCM là trái pháp luật và diện tích đất này
vẫn đang tranh chấp. Chưa có quyết định thu hồi.
Thế
nhưng hiện nay toàn bộ diện tích đất nhà tôi CQQ9 đã
giao cho Cty thương mại tư nhân T.C không sử dụng làm kho
chứa hàng cho CNC như CQQ9 và UBND TPHCM nói là thu hồi đất
cho CNC. Tôi đã có yêu cầu CQQ9 và UBND TPHCM không được
xâm phạm diện tích đất nhà tôi nhưng hiện nay họ đã
xây dựng mấy gian nhà kho.
Ngày
27/3/2013, tôi nhận được Thông báo số 73/TB-UBND “về
chấm dứt thụ lý giải quyết vụ việc tố cáo của ông
Nguyễn Xuân Ngữ, quận 9”.
Trong Thông báo này có nội dung căn cứ Luật tố cáo số
03/2011/QH13 ngày 11/11/2011; Công văn số 2695/TTCP-VP ngày
19/10/2012 của Thanh tra Chính phủ về hướng dẫn ra thông
báo chấm dứt giải quyết khiếu nại, tố cáo…. Sau khi
tìm hiểu, tôi được biết, Công văn số 2695/TTCP-VP của
Thanh tra Chính phủ được ban hành nhằm thực hiện ý
kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Trong Mục 1
của Công văn 2695 về quy trình ra thông báo, trong đó nêu
rõ, trước khi ra thông báo: Bước
1,
phải
họp liên ngành tại địa phương;
Bước
2,
tổ
chức đối thoại,
“tiến
hành tổ chức đối thoại với người khiếu nại, tố
cáo trên tinh thần công khai, dân chủ, qua đó vận động,
thuyết phục người dân thực hiện phương án giải quyết
(nếu qua đối thoại mà phát hiện tình tiết mới có thể
làm thay đổi bản chất vụ việc thì phải xem xét giải
quyết lại để vụ việc đó được giải quyết đúng
theo quy định của pháp luật và thấu tình, đạt lý)”.
Bước
3,
ra
thông báo,
bước này được thực hiện khi “những
vụ việc qua đối thoại, giải thích, vận động, thuyết
phục mà người khiếu nại, tố cáo đồng ý với phương
án giải quyết, thì ra thông báo kết thúc giải quyết,
chấm dứt khiếu nại, tố cáo; nếu đương sự không
đồng ý thì ra thông báo chấm dứt thụ lý, xem xét, giải
quyết vụ việc”.
như vậy, quy trình ra thông báo chấm dứt khiếu nại, tố
cáo rất nghiêm ngặt, tuy nhiên cơ quan có thẩm quyền
chưa thực hiện đúng theo quy định này.
Bên cạnh
đó, trong Công văn này còn có mục lưu ý khi triển khai
“giải
quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức
tạp, tồn đọng, kéo dài là công việc khó khăn, phức
tạp. Do vậy, việc thực hiện quy trình ra thông báo chấm
dứt phải được thực hiện đầy đủ và hết sức thận
trọng...chú trọng chất lượng của quá trình giải quyết
”.
Tôi
nhận thấy cơ quan có hữu trách chưa thực hiện theo
đúng chủ trương, quy
định
của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo, gây
ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích hợp
pháp của gia đình tôi về kinh tế ( thiệt hại 60-70
tỷ đồng ), tinh thần, sức khỏe hơn 10 năm qua.
Nguy hại hơn, nội
dung trong biên bản để báo cáo lên Thủ tướng Chính
phủ và Quốc Hội là gian dối , xảo trá không đúng
sự thật.
II.
Nội
dung yêu cầu giải quyết:
Từ những lý do trên, tôi phản
đối hành vi quan liêu, thiếu tư cách của người cán bộ
của bà phó Tổng thanh tra Chính phủ. Đặc biệt tôi tố
cáo hành vi của Đoàn thanh tra do ông Vũ Huy Tác phó Cục
trưởng Cục III Thanh tra Chính phủ, tổ trưởng tổ công
tác cùng các thành viên trong tổ này đã có hành vi gian
dối báo cáo Thủ tướng Chính phủ sai sự thật, không
nêu lên những hành vi có dấu hiệu tham nhũng của UBND
TPHCM:
Trên đây tôi tạm
nêu sơ bộ một vài sự việc, để chứng minh những hành
vi tham nhũng của CQQ9 được liên thông từ cấp quận đến
TW.
Sự việc
này liệu có được Bộ Chính trị và Ban chỉ đạo TW về
phòng chống tham nhũng, Ban Nội chính TW làm rõ không ?
-
Đề nghị hủy bỏ hoặc thu hồi văn bản số
227/UBND-PCNC, Thông báo số 73/TB-UBND ngày 27/3/2013 của UBND
TPHCM do ông phó chủ tịch Lê Minh Trí ký đối với việc
tố cáo của tôi. Đồng thời buộc ông Lê Minh Trí
phải công khai xin lỗi về hành vi gian dối, bất
chính này công khai trên các phương tiện thông tin đại
chúng.
- Đề
nghị Thủ tướng Chính phủ tiếp tục chỉ đạo
UBNDTPHCM nhanh chóng giải quyết hai văn bản chỉ đạo
của Thủ tướng số 4642/VPCP-KNTN
ngày 06/07/2010
và Văn bản thứ 2 số 6687/
VPCP-KNTN ngày
21/09/2010 về việc khiếu
nại, tố cáo của tôi
- Đề nghị Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng. Ban Nội chính TW. Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo cho UBNDTPHCM và cơ quan hữu trách tổ chức buổi giải quyết bằng đối thoại giữa tôi với CTUBNDTPHCM và cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tiến hành giải quyết dứt điểm vụ việc, tránh kéo dài, gây ảnh hưởng nhiều mặt đến gia đình tôi.
- Đề nghị Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng. Ban Nội chính TW. Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo cho UBNDTPHCM và cơ quan hữu trách tổ chức buổi giải quyết bằng đối thoại giữa tôi với CTUBNDTPHCM và cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tiến hành giải quyết dứt điểm vụ việc, tránh kéo dài, gây ảnh hưởng nhiều mặt đến gia đình tôi.
Tôi mong nhận được
sự quan tâm của Quý cấp Lãnh đạo Đảng, Nhà nước
và cơ quan hữu trách sau khi nhận được đơn tố
cáo của tôi; đề nghị cho tôi được biết ý kiến
đối với nội dung đơn này , bằng văn bản thông
báo theo quy
định tại điểm b , c khoản 1 Điều 9 Luật Tố cáo số
3 .
Tôi
xin chân thành cảm ơn
Nguyễn
Xuân Ngữ
0 nhận xét:
Đăng nhận xét